Bào Ngư là một mặt hàng thực phẩm còn khá xa xỉ ở nước ta. Nếu như ngày xưa, để có thể ăn được bào ngư thì chúng ta phải mua hàng từ những công ty hoặc doanh nghiệp nhập khẩu bào ngư từ nước ngoài. Nhưng ngày nay, việc ăn bào ngư đã trở nên cực kỳ dễ dàng khi ở trong nước, đã có rất nhiều bãi nuôi bào ngư với quy mô lớn để phục vụ cho người tiêu dùng. Vì bào ngư là một loại thực phẩm cực kỳ nhiều chất dinh dưỡng và thường được dùng để bồi bổ sức khỏe cho người thân trong gia đình nên đây hứa hẹn sẽ là mặt hàng tiềm năng mà bà con nông dân có thể lưu ý tới.
Bài viết sau đây sẽ giúp bà con nông dân có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc nuôi bào ngư để cải thiện kinh tế cho gia đình.
Mục Lục
Những quy định khi nuôi bào ngư

Quy trình sản xuất giống bào ngư H.diversicolor được xây dựng trên những kết quả nghiên cứu từ năm 1992-1995 của đề tài KN04-07 và năm 1996-1998 của đề tài cấp ngành do Viện nghiên cứu Hải sản chủ trì, được áp dụng cho những vùng sinh thái có đủ điều kiện nuôi bào ngư như: nhiệt độ nước 20-300C; độ mặn 30-320/00; độ trong > 4m; pH 8,0-8,2; độ sâu 3-3,5m. Nuôi nhốt trong ống plastic, tại vùng có độ mặn > 300/00, nhiệt độ nước 28-300C, độ trong cao. Cho ăn rong câu, rong mơ. Làm vệ sinh thường xuyên. Bào ngư có kích thước lớn: chiều dài vỏ 70-80mm; khối lượng 25-30g, tuyến sinh dục phát triển tốt.
Cách lựa chọn bào ngư tốt để sản xuất giống về sau
Chọn các cá thể khoẻ mạnh, sinh trưởng nhanh, không bị dị tật và tuyến sinh dục thành thục (dựa vào màu sắc). Lấy tế bào sinh dục kiểm tra dưới kính hiển vi. Trứng chín hình tròn rời rạc và có thể nhìn thấy nhân, tinh trùng vận động mạnh khi cho vào môi trường nước. Sau khi tuyển chọn xong đưa bố mẹ vào các ô thuyền với tỉ lệ 2-3 cái/1 đực.
Trong các ô thuyền, nước lưu thông và điều kiện môi trường nước sạch sẽ, có hàm lượng oxy hòa tan cao sau một thời gian ngắn thì Bào ngư sẽ đẻ. Thường xuyên theo dõi nếu Bào ngư sinh sản xong chứng ta vớt bố mẹ ra khỏi các ô thuyền sau đó chuyển thuyền đến nơi ương (điều kiện môi trường ổn định và ít sóng gió hơn). Trong quá trình ương, thường xuyên theo dõi và duy trì nhiệt độ từ 28-30°C. Nồng độ muôi 30% và pH là 7,5. cần chú ý ở giai đoạn ấu trùng hình thành nắp vỏ phải giữ môi trường ương thật ổn định, nếu không ấu trùng sẽ không trải qua được giai đoạn mất nắp vỏ và ấu trùng sẽ chết.
Kích thích quá trình thu trứng và tinh
Kích thích đẻ bằng phương pháp gây sốc nhiệt kết hợp với chiếu tia cực tím 5 phút. Cho bào ngư đực, cái đẻ riêng để thu trứng và tinh. Dùng lưới phù du thực vật lọc lấy trứng chuyển sang bể ương. Trộn trứng và tinh theo tỷ lệ 10/1, mật độ trứng từ 10-15 tế bào/ml, mật độ tinh 5-6.104 tế bào/ml. Sự thụ tinh xảy ra ngay sau đó, trứng chìm xuống đáy, bắt đầu xảy ra phân bào. Khi trứng đã thụ tinh, lắng xuống đáy, lọc bỏ phần nước phía trên chứa nhiều tinh và các dịch tế bào khác. Thay nước 3-5 lần cho kết quả tốt hơn.
Quá trình nuôi và quản lý bể ấu trùng

Nuôi tảo khuê và chuẩn bị vật bám: Nuôi tảo trong môi trường có bón phân và cường độ chiếu sáng 2.000-3.000 lux thời gian chiếu sáng 8-10 giờ/ngày. Sục khí thường xuyên, thay nước 3 ngày/lần, sau 7-10 ngày tảo phát triển mạnh có thể sử dụng để lấy giống.
Thu ấu trùng Veliger: Thay nước 3-5 lần/ngày trong giai đoạn đầu sau thụ tinh. Ngừng cấp khí đến khi nở thành ấu trùng Trochophore. Che tối bể ương. Tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở thành ấu trùng Trochophore cao trên 90%.
Nuôi thành bào ngư giống: Sục khí nhẹ, thường xuyên thay nước 2 lần/ngày thay 2/3 thể tích bể. Bổ sung thức ăn khi thấy có dấu hiệu tảo bị lụi. Khi bào ngư giống được 60 ngày tuổi, dài 7mm có thể thả nuôi ngoài vùng biển tự nhiên, có độ mặn cao 30-320/00. Tỷ lệ sống đến giai đoạn Juvenile đạt 10% trở lên
Số lượng giống bào ngư sau khi nuôi
Ðã sản xuất được giống bào ngư với số lượng tương đối lớn: 50.000 con (1994) và 35.000 con (1997). Tích luỹ được những kinh nghiệm, ổn định kỹ thuật trong nuôi vỗ bố mẹ, cho đẻ và ương nuôi ấu trùng. Sử dụng các loại bể 25 lít, 100 lít, 1000 lít để cho đẻ và nuôi ấu trùng, chủ động nuôi bào ngư bố mẹ bằng các loại thức ăn trong nước. Tỷ lệ nở ấu trùng Trochophore là 90% và tỷ lệ sống đến bào ngư giống là 10%. Mật độ ương trong giai đoạn 1 là 5 con/ml; mật độ giống sau 40 ngày là 0,2 con/cm2 vật bám.
Ðã giải quyết tốt nguồn thức ăn cho ấu trùng. Hoàn toàn có thể chủ động lưu giữ, phân lập tảo khuê từ các nguồn trong tự nhiên.
Ðã đạt kết quả tốt trong việc gây sốc kích thích đẻ và làm thụ tinh nhân tạo.
Những hình thức nuôi bào ngư thương phẩm

Ngư dân vùng Quảng Ninh, Hải Phòng chỉ quen khai thác bào ngư tự nhiên từ tháng 4-9 hàng năm ở các ven đảo. Phương thức khai thác là lặn mò có sử dụng khí tài hoặc không; dùng các móc sắt móc bào ngư nằm trong các kẽ đá hoặc lật đá. Việc nuôi bào ngư còn hết sức mới mẻ, tuy nhiên, nuôi bào ngư sẽ giúp tăng sản lượng bào ngư và làm giảm cường độ lao động trong ngư dân
– Nuôi bào ngư theo hình thức quảng canh: Thả giống bảo vệ và khai thác hợp lý. Phía nam-đông nam các đảo: Quan Lạn, Cô Tô, Minh Châu là những vùng nước có độ mặn cao quanh năm, đáy thường là đá cục hoặc phiến xếp liền kề nhau, có nhiều rong phát triển vào các tháng xuân hè. Ðây là địa điểm rất tốt để nuôi bào ngư theo hình thức quảng canh.
– Nuôi treo: Là phương thức hợp lí nhất, được nhiều nước áp dụng. Theo cách này, bào ngư được nhốt trong các ống plastic đường kính 150-200mm, dài 300-450mm. Trên có khoan 4-6 hàng lỗ đường kính 10mm, cách nhau 4-5cm. Hai đầu ống có lưới (mắt lưới 2a=1mm) bịt kín và giữ cố định bởi hai vòng nhựa. So với các kiểu nuôi treo bằng lồng nhựa, rổ nhựa nuôi trong ống nhựa có nhiều ưu điểm hơn: dễ cho ăn, dễ bắt để kiểm tra; tránh được hầu hết địch hại và giá thành hạ, dễ kiếm.